Bắc Ninh là nơi nổi tiếng với những ngôi chùa linh thiêng lâu đời. Một trong số đó chắc chắn không thể không nhắc tới Chùa Bút Tháp. Chùa có kiến trúc vô cùng độc đáo sẽ là điểm đến lý tưởng nếu du khách muốn tìm về một chốn dung dị. Chùa nằm ngay khu vực ven sông Đuống, quanh chùa có dòng sông uốn lượn quanh co là khung cảnh vô cùng nên thơ. Chùa còn có tên khác là Ninh Phúc tự, thuộc xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được vẻ đẹp sơ khai lúc ban đầu. Chùa Bút Tháp là một ngôi chùa cổ với nét kiến trúc vô cùng độc đáo tại Bắc Ninh. Ninh Phúc tự được cho xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 17 thời Hậu Lê. Kiến trúc xây dựng của chùa theo kiểu “Nội công ngoại quốc”.Tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng chùa vẫn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính. Đây cũng là một trong những di tích lịch sử Quốc Gia mà du khách nên ghé tới. Đặc biệt bạn sẽ không muốn bỏ lỡ cơ hội tham gia lễ hội chùa Bút Tháp. Kiến trúc xây dựng chính của chùa quay về hướng Nam. Theo đạo phật đây là hướng thể hiện trí tuệ. Chùa được xây dựng theo bày trí cân xứng chặt chẽ. Khu trung tâm của tháp được xây dựng bao gồm 8 nếp nhà chạy song hành với một trục dọc theo mô hình đường thần đạo. Khu vực ngoài cùng tháp bút là Tam Quan, rồi đến Gác Chuông và các tòa thờ khác. Bên trái của chùa là nơi thờ tự Chiết Tuyết và tháp đá Báo Nghiêm bao gồm 8 mặt và 5 tầng cao đến 13m. Dọc hai bên tòa Tiền Đường là hai nhà bia và hai dãy hành lang được xây dưng chạy dọc theo chiều dài của ngôi chùa. Nếu có cơ hội được đến tham dự lễ hội chùa Bút Tháp, du khách nên dành thời gian tham quan một số địa điểm được đề xuất. Đảm bảo bạn sẽ có một chuyến du lịch tâm linh trọn vẹn. Đầu tiên là Tượng phật Quan Âm. Tượng phật là 1 trong 4 bảo vật quốc gia được Nhà nước công nhận được đặt tại chùa. Ngoài tượng Phật Quan Âm, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng: Bộ Tượng Phật Tam Thế, cùng Hương Án và tòa Cửu Phẩm Liên Hoa.Một trong những địa điểm được nhiều du khách đặc biệt quan tâm trong Chùa Bút Tháp đó chính là tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt. Pho tượng này đã có tuổi đời rất lâu năm được xác nhận điêu khắc vào năm 1656. Tượng có bề ngang là 2.1m và chiều cao 3.7m, độ dày là 1.15m. Được gọi là tượng phật nghìn tay nghìn mắt bởi tượng Quan Âm có tất cả là 11 đầu với 952 cánh tay ngắn và 42 cánh tay dài. Đây thật sự là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất mang đậm ý nghĩa Phật Giáo. Thứ hai là Tháp Báo Nghiêm, Một địa điểm mà du khách nhất định phải ghé đến khi thăm Chùa Bút Tháp đó là tháp Báo Nghiêm. Tháp được đặt nằm ngay bên trong khuôn viên của chùa. Đây chính là nơi thờ tự Hòa thượng Chuyết Chuyết. Tháp Báo Nghiêm được tiến hành xây dựng từ năm 1647 thời vua Lê Chân Tông. Đây cũng là công trình được công nhận có tuổi đời lâu năm. Cửa chính của tháp cũng được xây dựng quay về hướng Nam với dòng chữ “Báo Nghiêm Tháp” ngay tại thân của công trình. Tháp có kiến trúc tương đối độc đáo xây dựng nhỏ dần từ thấp đến cao. Nhìn từ trên cao trông tháp Báo Nghiêm như một chiếc bút khổng lồ giữa bầu trời xanh.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
4726 lượt xem
Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành. Chùa Dâu là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị lịch sử về văn hóa hết sức lớn lao và sâu sắc, bao gồm giá trị lịch sử văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Năm 2013, chùa Dâu được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt. Quá trình hình thành và tồn tại của chùa Dâu gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của nước ta. Cùng với một số chùa lân cận, chùa Dâu tạo nên một trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam và khu vực. Đây là trung tâm Phật giáo được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ nhà Hán là Bành Thành và Lạc Dương. Nhiều đại sư danh tiếng thời xưa đã từng tu hành, trụ trì ở chùa Dâu như: Mâu Bác ở thế kỷ II, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương ở thế kỷ III và Thiển sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở thế kỷ VI. Chùa Dâu còn là chùa Cả trong hệ thống chùa thờ Tứ Pháp, chùa Dâu thờ Thần Mây (Pháp Vân), chùa Thành Đạo thờ Thần Mưa (Pháp Vũ), chùa Phi Tướng thờ Thần Sấm (Pháp Lôi), và chùa Phương Quan thờ các lực lượng thiên nhiên của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và cũng là sự biểu hiện của cả tục thờ Mẫu, một tôn giáo bản địa thuần Việt. Chùa còn thờ “Đức Thạnh Quang” – biểu tượng của thần SiVa trong Ấn Độ giáo. Như vậy, chùa Dâu đã dung hội, cải tiến một cách điển hình các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa với các tôn giáo lớn trong khu vực nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc. Hội Dâu tổ chức vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch hàng năm, đây là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn được duy trì. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa Dâu đã trải qua nhiều lần trùng tu tôn tạo. Đại tu toàn bộ các hạng mục công trình, tu sửa tháp Hòa Phong, sơn thếp hệ thống tượng, khôi phục Tam quan, giải phóng mặt bằng phía trước chùa để kè hồ, xây dựng tường bao bảo vệ di tích. Chùa Dâu gồm các hạng mục công trình: Tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, nhà Tả vu – Hữu vu, Tam Bảo, Hậu đường, hành lang và các công trình phụ trợ. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Nhưng kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu làm bằng đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu -Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối Tiền thất và Hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ Tát, Tam Thế, Đức Ông, Thánh Tăng được đặt ở phần hậu điện. Trải qua bao biến đổi, thăng trầm của lịch sử. Chùa Dâu là điểm đến của Phật tử của cả nước, du khách đến với chùa Dâu là về với đạo Phật và cùng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp, giá trị mà ngôi chùa mang lại. Như cái tên bình dị, chùa Dâu ngôi chùa cổ bậc nhất xứ Kinh Bắc.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
4778 lượt xem
Nhắc đến Bắc Ninh không chỉ là nhắc đến những làn điệu dân ca đi sâu vào tiềm thức của người dân Kinh Bắc, mà còn là nhắc đến mảnh đất cổ lâu đời với nét truyền thống văn hóa đặc sắc. Nét văn hoá đó thể hiện qua các làng nghề như Tranh Đông Hồ, làng nghề Đúc Đồng, Gốm Phù Lãng… hay các địa điểm tâm linh như đền Đô, chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Bút Tháp. Đình làng Đình Bảng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp) - quê hương Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ), người lập ra triều Lý và khai sáng kinh đô Thăng Long (năm 1010). Đây được coi là là ngôi đình cổ kính và nổi tiếng nhất của đất Kinh Bắc. Từ xa xưa, dân gian xứ Bắc đã có câu: "Thứ nhất là đình Đông Khang/ Thứ nhì đình Báng, vẻ vang đình Diềm" cũng là để ca ngợi vẻ đẹp kiến trúc và giá trị lịch sử văn hoá mà Đình Bảng đem lại. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Công trình này đã mất gần 40 năm để xây dựng. Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Nguyên trước có cả tam quan, cửa giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao, hai bên có cửa cuốn tò vò giả mái, phía sau là khoảng sân rộng, hai bên là hai dãy tả vu và hữu vu. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Đình làng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ. Công trình đồ sộ nhất và quan trọng nhất là Đại đình (Bái đường). Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như tứ quý, tứ linh, thanh gươm, bầu rượu. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
4629 lượt xem
Vào mỗi dịp đầu xuân, ai nấy cũng hứng khởi và chờ đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi. Và một trong số những lễ hội truyền thống nổi tiếng ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, là lễ hội lớn của vùng, thể hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc. Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương. Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng. 40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu, hoành tráng. Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong chính hội. Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội. Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị. Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy một lòng ngóng chông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Bắc Ninh
Tháng 2
4808 lượt xem
Nằm ở làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, đền Đô được xây dựng từ thế kỉ thứ 11 và còn được gọi tên là Cổ Pháp Điện hay đền Lý Bát Đế. Đền là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý: Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Với diện tích hơn 31,000m2, đền Đô có 21 công trình lớn nhỏ được chia làm khu nội thành và khu ngoại thành và với trung tâm là đền thờ chính. Đến đây, bạn sẽ phải trầm trồ trước một cảnh quan rộng lớn với những công trình đại điện hoành tráng, hậu cung uy nghi, thuỷ đình thư thái và những văn bia tĩnh mịch. Trong đền chùa cổ kính, mùi hương trầm như lan toả khắp không gian và khiến ta suy tưởng về một triều đại anh hùng linh kiệt hào hùng. Trải qua nhiều triều đại, đền được nhiều lần tu sửa và mở rộng. Không chỉ sở hữu những giá trị văn hoá và lịch sử đặc sắc, đền Đô còn sở hữu kiến trúc cung đình dân gian độc đáo trong một tổng thể cảnh trí hữu tình và hài hoà với thiên nhiên. Đây cũng là một công trình kiến trúc tiêu biểu với nghệ thuật khắc đá, gỗ, tạc tượng với nhiều đường nét chạm khắc tinh xảo, công phu. Sự độc đáo trong kiến trúc ở đền Đô không mang tính giá trị nghệ thuật cao và phần nào thể hiện đậm nét giá lịch sử và văn hoá của triều đại Lý nói riêng và văn hoá lịch sử dân tộc nói chung. Hàng năm, lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 14, 15 và 16 tháng 3 Âm lịch nhân kỉ niệm ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua và ban “Chiếu dời đô”. Đây là một lễ truyền thống có từ lâu đời và đã trở thành một phong tục ăn sâu vào đời sống văn hoá tinh thần của người dân nơi đây. Lễ hội thu hút nhiều du khách đến dâng hương và tỏ lòng thành kính với các vị vua nhà Lý.
Bắc Ninh
Tháng 4
4832 lượt xem
Chùa Phật Tích là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời mang đậm dấu ấn thời Lý. Chính những di sản văn hoá quý báu này là nguồn tư liệu sống động, đầy tính nhân văn trong hành trình tìm về cội nguồn dân tộc. Vì vậy nếu bạn là người quan tâm đến tín ngưỡng Phật giáo và các giá trị lịch sử truyền thống thì chùa Phật Tích sẽ là địa điểm tham quan không thể bỏ qua. Chùa thuộc địa phận xã Phật Tích, đây chính là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tín ngưỡng dân gian Việt cổ và Phật giáo. Sự kết hợp hài hòa đó đã hình thành nên trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta. Với những giá trị to lớn về mặt lịch sử và văn hóa chùa Phật Tích thu hút rất nhiều du khách đến nghiên cứu, ngắm cảnh hàng năm. Theo sử sách ghi lại thì chùa được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư tức năm 1057. Mục đích xây dựng chùa là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và gửi gắm niềm tin của đông đảo nhân dân. Ban đầu, chùa được xây lên với nhiều tòa ngang dãy dọc. Tiếp đó tại nơi đây vua Lý Thánh Tông cho xây dựng thêm một ngọn tháp Linh Quang vào năm 1066. Về sau khi tháp đổ thì lộ ra bên trong có tượng Phật A-di-đà được làm từ đá xanh nguyên khối dát vàng. Dân làng đã đổi tên thành Phật Tích và di chuyển và sinh sống trên sườn núi trước sự kỳ diệu của bức tượng Phật. Cho đến thời điểm hiện tại dù đã trải qua nhiều biến động của thời gian ngôi chùa vẫn giữ được nhiều nét cổ kính, trầm mặc. Chùa được thiết kế theo lối Nội công ngoại quốc. Sân chùa Phật Tích là bậc nền thứ nhất. Nơi đây gắn liền với vườn sự tích hoa mẫu đơn khoe sắc lưu truyền trong truyền kỳ nổi tiếng “Từ Thức gặp tiên”. Bậc nền thứ hai của chùa là nơi có các kiến trúc cổ nhưng theo thời gian ngày nay không còn được thấy. Nền thứ ba ở vị trí cao nhất, có Long Trì là một cái ao hình chữ nhật nay cạn nước. Điểm độc đáo của chùa là bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh ngồi trên tòa sen cao đến 1,87 m. Đây là một trong những tác phẩm điêu khắc đặc sắc của kỹ thuật tạc tượng đỉnh cao.Ngoài ra, ở chùa Phật Tích còn có bức tượng người chim đánh trống. Bức tượng này đã thể hiện sự thoát tục và khát vọng vươn tới ước mơ của con người. Ngay phía trước chùa có một dãy thú 10 con: trâu, tê giác, voi, ngựa… có kích thước lớn. Tất cả được làm từ đá đã thể hiện tài hoa của các nghệ nhân thời Lý. Ngày nay, chùa có tất cả 7 gian tiền đường để dùng vào mục đích đón tiếp khách gần xa. Chùa có 5 gian bảo thờ Phật, đức A Di Đà và các vị tam thế. Ngoài ra chìa còn có 7 gian nhà thờ Mẫu, 8 gian nhà Tổ.Lối đi lên chùa có ba bậc nền bạt vào sườn núi có kè bằng đá tảng dựng đứng như bức tường dài 58m. Ba bậc nền có cao từ 3–5m và khoảng giữa tường là lối đi bằng đá rộng 5m có đến 80 bậc. Bạn có thể tham quan chùa Phật Tích bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng phù hợp nhất là tháng Giêng. Lúc này, tiết trời mát mẻ, hoa cỏ sinh sôi nên rất phù hợp để vãn cảnh chùa. Ngoài ra, lễ hội Khán hoa mẫu đơn ở chùa Phật Tích còn là một trong những lễ hội diễn ra sớm và có quy mô lớn nhất Bắc Ninh. Lễ hội gắn liền với chuyện tình cảm động Từ Thức gặp tiên. Lễ hội chùa Phật Tích thường được diễn ra trong ba ngày, từ mồng 3 đến mồng 5 Tết âm lịch hàng năm. Ngày chính của hội là mồng 4. Từ ngày mồng 3 đã có rất đông du khách kéo về chùa để lễ Phật, cầu may mắn, bình an. Hàng vạn du khách đã nô nức có mặt tại đây dự lễ hội. Một lưu ý nho nhỏ là khi đến vãn cảnh chùa khách du lịch nên ăn mặc lịch sự, kín đáo để thể hiện lòng tôn kính đối với đạo Phật. Chùa Phật Tích thực sự là nơi lưu giữ những giá trị lịch sử đã có từ hàng ngàn năm của dân tộc. Du khách đến đây không chỉ là để hành hương bái Phật mà còn để chiêm nghiệm những giá trị cổ xưa của dân tộc.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
5114 lượt xem
Thành cổ Xương Giang, tọa lạc chính xác tại ở phường Xương Giang, ngay khu vực trung tâm TP Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Nhắc đến Bắc Giang, người ta nhắc tới một vùng đất địa linh nhân kiệt, với bề dày lịch sử dựng, giữ nước, ghi dấu những chiến công vang dội. Trong đó, không thể không kể đến địa danh Chi Lăng – Xương Giang lững lẫy bao thời và từ đó tới nay, Thành cổ Xương Giang đã trở thành một điểm đến tâm linh, du lịch, được vinh danh là di tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc gia, một điểm đến thú vị khi ghé thăm vùng đất Bắc Giang. Xương Giang là tên ngôi thành cổ do quân Minh xây dựng vào thế kỷ thứ XV (1407). Thành được xây bằng đất, theo các dấu tích còn lại mà người ta khai quật được, thành được xây dựng thành hình chữ nhật, dọc theo hướng Đông - Tây với chiều dài đo được là 600m, chiều rộng đo được theo hướng Bắc - Nam là 450m và với tổng diện tích là 27ha. Bao quanh Thành cổ Xương Giang là tường đắp đất cao dày dặn chắc chắn, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông về phía Tây. Theo khảo sát thực tế và hồ sơ di tích để lại của Thành cổ Xương Giang thì dấu tích ngôi thành cổ xưa nay còn lại không nhiều trong đó, tường thành cao hơn mặt bằng xung quanh khoảng 3- 4m, chân rộng 25m và mặt rộng từ 16- 20m. 4 góc thành cổ Xương Giang có 4 pháo đài cao hơn mặt thành 4m, nhô hẳn ra ngoài và phía bên ngoài thành là hệ thống hào bao bọc chạy vòng quanh để đảm bảo chiến lược quân sự ngày xưa. Theo sử sách lưu truyền lại, Thành cổ Xương Giang là địa danh gắn liền với chiến thắng Xương Giang của quân dân Đại Việt lừng lẫy năm nào do Lê Lợi lãnh đạo. Tại nơi đây, đoàn quân đã đập tan 10 vạn quân xâm lược Minh trong trận chiến kéo dài gần 1 tháng trải dài dọc địa bàn Lạng Sơn và Bắc Giang ngày nay với bốn trận thắng lớn: Ngày 10/10: dẹp tan quân địch và kết liễu vị Thái tử Liễu Thăng tại cửa ải Chi Lăng; Trận ngày 15/10 đánh tan quân dịch tại khu vực Cần Trạm, ngày nay là Hương Sơn- Lạng Giang, khiến cho tướng giặc là Bảo Định Bá Lương Minh phải tự vẫn; Trận đánh Hố Cát ngày 18/10 nằm trên địa bàn Vôi, Xương Lâm, Phi Mô - Lạng Giang ngày nay, làm cho Thượng thư Lý Khánh tự tử. Đặc biệt là trận Xương Giang ngày 3/11/1427, trên cánh đồng Xương Giang (ngày nay thuộc các xã Tân Dĩnh, Xuân Hương, Mỹ Thái huyện Lạng Giang và Thọ Xương, thành phố Bắc Giang) quân ta đã chiến thắng sau 10 ngày bị bao vây. Trong trận chiến ấy, nghĩa quân đã đánh tan tới bảy vạn quân giặc, cầm quân là hai vị tướng tài Thôi Tụ và Hoàng Phúc, buộc quân Minh lúc bấy giờ đang đóng ở Đông Đô - Hà Nội phải xin hàng rút về nước. Chiến thắng năm nào của nghĩa quân Lam Sơn do vị tướng tài ba Trần Nguyên Hãn chỉ huy để chiếm lấy thành Xương Giang và phá tan đạo quân hùng hậu của Liễu Thăng đã góp phần quan trọng vẽ nên chiến thắng lịch sử để từ đó làm cơ sở giúp nước ta lật đổ ách thống trị bạo tàn của nhà Minh đã kéo dài suốt 20 năm, quyết định nền độc lập của đất nước ta thế kỷ thứ XV. Khi ấy, Thành cổ Xương Giang được coi là trung tâm của trận đánh và liên tục là nhân chứng lịch sử cho nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quê hương đất nước thời bấy giờ, nhất là cuộc khởi nghĩa nổi tiếng với sự lãnh đạo của vị tướng Nguyễn Hữu Cầu, hay còn được biết tới là Quận He xảy ra vào nửa sau thế kỷ 18. Là nhân chứng lịch sử của nhiều sự kiện lịch sử lẫy lừng, Thành cổ Xương Giang hàng năm vẫn được tỉnh Bắc Giang lựa chọn là địa điểm tổ chức lễ hội, thường là vào ngày 6-7 tháng Giêng. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại Thành cổ Xương Giang năm nào. Trước ngày khai hội, thường sẽ vào tối mùng 5 tháng Giêng, thanh niên nơi đây lại tổ chức đốt lửa trại và tại các đình, chùa và nhà văn hoá sẽ tổ chức đốt đèn đuốc suốt đêm để đợi đến canh năm để sắp hàng ngũ, khua chiêng múa trống kéo về nơi quy tụ để khai hội. Vì thế, cứ tới sáng sớm ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm, chúng ta sẽ được tận hưởng không khí lễ hội tuyệt vời với đoàn người từ các phường xã, giương cờ, đánh trống, với đủ loại xe kiệu, quần áo rực rỡ, lần lượt đổ từ các ngả đường tiến về trung tâm khai hội và bắt đầu lễ hội lớn nhất trong năm tại nơi đây. Với ý nghĩa lịch sử đó, ngày 22-01-2009, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã có Quyết định xếp hạng Thành cổ Xương Giang là di tích lịch sử cấp Quốc gia, với 14 điểm di tích là: Cửa đông bắc, cửa đông, cửa bắc, cửa tây nam, cửa nam, khu trung tâm, dấu vết thành, đoạn sông Xương Giang chảy qua thành; địa điểm khai quật khảo cổ học số 2, 3, giếng Phủ, đền Thành và 2 điểm ngoài khu bảo vệ là: cửa đông nam, cửa tây.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
4434 lượt xem
Hồ Cấm Sơn có toạ lạc tại xã Sơn Hải, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, được xem là công trình đại thủy nông lớn thứ tư trong cả nước. Nhiệm vụ chính của hồ là cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp. Dù có diện tích trung bình 2.600ha, nhưng vào mùa hè và những lúc có mưa nhiều, mặt hồ có thể mở rộng lên tới hơn 3.000ha. Hồ Cấm Sơn được bao bọc bởi những dãy núi cao hùng vĩ và rừng cây xanh mướt, tạo thành một không gian thiên nhiên đẹp mê hồn. Để đến được Hồ Cấm Sơn, bạn có thể đi xe từ trung tâm Hà Nội theo con đường dài khoảng 100km. Trên đường đi, bạn sẽ phải đi qua cầu Long Biên và thị xã Từ Sơn, sau đó đi đến Bắc Ninh và chạy thêm khoảng 22km để đến Bắc Giang. Tại đây, bạn sẽ tiếp tục đi theo Quốc Lộ 31 để tới thị trấn Chũ (Lục Ngạn) và tìm đường rẽ trái để đi đến hồ Khuôn Thần (tỉnh lộ 289). Khi đến ủy ban xã Kiên Thành, bạn chỉ còn cách Hồ Cấm Sơn khoảng 15km nữa. Tuy nhiên, vì đường đi khá xa và gồm nhiều đoạn đường khác nhau, để đảm bảo an toàn cho chuyến đi của mình, bạn nên đi cùng một nhóm đông người và nghỉ ngơi định kỳ trên đường. Ngoài ra, bạn cũng có thể hỏi đường người dân địa phương để được hướng dẫn cụ thể hơn tránh bị lạc đường và mất thời gian nhé. Hồ Cấm Sơn là một địa điểm du lịch phù hợp để ghé thăm vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm từ những người từng đến đây, mùa hè là thời điểm đẹp nhất để trải nghiệm không gian thoáng đãng và thưởng ngoạn cảnh đẹp của hồ. Bạn có thể cắm trại cùng bạn bè hay trải nghiệm tắm hồ tại đây. Ngoài ra, mùa thu cũng là thời điểm tuyệt vời để du lịch Hồ Cấm Sơn, lúc này khí hậu mát mẻ và cây cối bắt đầu thay lá, tạo nên một không gian thiên nhiên lãng mạn. Nếu bạn muốn trải nghiệm mùa vụ vải chín đỏ rực của vùng đồi Lục Ngạn, bạn có thể lên kế hoạch đến đây vào khoảng tháng 6 hoặc tháng 7. Đây cũng là thời điểm để hòa mình vào không khí thu hoạch của các dân cư địa phương. Hồ Cấm Sơn giống như một bức tranh thiên “sơn thủy hữu tình”, khi đặc thù nơi đây là bờ hồ được bao quanh bởi các ngọn núi điệp trùng. Người dân đi lại chủ yếu bằng thuyền, lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống cổ truyền. Khi đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoang sơ của những dãy núi cao và hàng cây xanh mướt tạo bóng xuống mặt hồ trong lành. Thêm vào đó, hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ nhấp nhô giữa mặt hồ càng tôn lên cảm giác như bạn đang sống trong một phiên bản thu nhỏ của Hạ Long, tại Bắc Giang. Có thể bạn chưa biết, sự lãng mạn và thơ mộng của thiên nhiên ở đây từng truyền cảm hứng sáng tác cho nhạc sĩ Phó Đức Phương tạo nên bài hát "Hồ trên núi", trở thành một tác phẩm nổi tiếng đến ngày nay. Ngoài ra, bạn có thể cùng người thân du ngoạn tới những hòn đảo nhỏ và chiêm ngưỡng mây trời, núi non hùng vĩ tại hồ Cấm Sơn bằng một chiếc thuyền máy. Ngoài việc chiêm ngưỡng thiên nhiên tuyệt đẹp, du khách còn có thể tham gia nhiều hoạt động thú vị tại Hồ Cấm Sơn như chèo thuyền, leo núi, câu cá,... Điều này chắc chắn sẽ khiến cho chuyến du lịch của bạn trở nên đầy phấn khích và ý nghĩa. Không chỉ thế, khu du lịch Hồ Cấm Sơn còn là điểm đến "hot" ở Bắc Giang, thu hút rất nhiều du khách trẻ đến đây cắm trại, dã ngoại. Sau khi khám phá đảo trên thuyền, bạn có thể ghé qua xóm chài để mua những sản phẩm đặc sản như tôm, cá tươi sống. Ngoài ra, bạn có thể ghé vào các căn nhà xung quanh để mua gà đồi và thuê bếp của chủ nhà để tự tay nấu nướng món ăn đặc trưng của vùng đất này. Đây thực sự là trải nghiệm tuyệt vời để tìm hiểu về văn hóa, phong tục tập quán địa phương và cảm nhận sự ấm áp, thân thiện của người dân nơi đây.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
5770 lượt xem
Chùa Đức La (hay còn được biết đến là chùa Vĩnh Nghiêm) nằm trên một quả đồi thấp tại thông Đức La, xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang. Chùa Đức La nằm cách trung tâm thành phố khoảng hơn 18 km. Có lẽ vì vậy, mà nơi đây không vướng những cái ồn ào, tấp nập của thành thị. Chùa được xây dựng từ đầu thời Lý Thái Tổ (1010-1028) cho tới thời vua Trần Thành Tông (1258-1278), chùa là nơi có nhiều vị cao tăng tu hành. Do đó, chùa đã được tu tạo nguy nga và lộng lẫy hơn. Chùa cũng là nơi mà vua Trần Nhân Tông đến thụ giới và sáng lập nên Thiền phái Phật giáo Việt Nam. Tại chùa Đức La, vua Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa và Huyền Quang đã tạo nên Trúc Lâm Tam Tổ của thiền phái Trúc Lâm. Chùa Đức La nổi bật với phong cảnh thiên nhiên hữu tình, nên thơ. Chùa nằm trên một quả đồi thấp, ở nơi lưu hợp của sông Lục Nam và sông Thương. Bao quanh chùa là núi Cô Tiên. Một vị trí tuyệt vời, giao thoa giữa núi sông. Không ồn ào, nhộn nhịp, đứng ở nơi đây, con người như được hoà mình vào giữa mênh mông trời đất. Chùa Đức La được đặt trên khuôn viên rộng với diện tích khoảng 10000 mét vuông. Mở đầu là cổng Tam Quan và sau đó là Tiền Đường. Bước vào sân chùa, những dấu ấn xưa cũ vẫn còn được lưu trữ hiển hiện ngay trước mắt. Trong đó, tấm bia to 6 mặt năm Hoằng Định được xem là lâu đời nhất. Chùa Đức La có lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng ngàn năm. Chùa có cấu trúc với 4 khối: chùa hình chữ “công”, hai bên có các dãy Tả vu, Hữu vu. Các dãy trong chùa đều rộng rãi gồm 18 gian. Chùa Đức La còn được biết đến bởi các giá trị điêu khắc tinh xảo, điệu nghệ. Thể hiện rõ nét nhất thông qua hệ thống tượng Phật được sắp xếp ở 3 khối nhà chính: Tam bảo, Nhà Tổ đệ nhất và Nhà Tổ đệ nhị. Bên cạnh đó, trong chùa còn lưu giữ lại nhiều di vật có giá trị. Phải kể đến bức hoành phi – câu đối cùng hệ thống văn bia với 8 tấm ghi lại tiến trình lịch sử và phát triển của Trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm.
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
5952 lượt xem
Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ nằm trên tuyến đường tâm linh từ TP Bắc Giang đến thị trấn Thanh Sơn (Sơn Động) kết nối với nhiều khu, điểm du lịch hấp dẫn như: Chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng); khu du lịch tâm linh - sinh thái Tây Yên Tử, Khe Rỗ (Sơn Động), đồng thời tiếp giáp với hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Dương trở thành điểm du lịch cầu nối trung chuyển với các điểm du lịch trong quần thể di tích - danh thắng phía Đông và Tây Yên Tử, cùng di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc và các điểm du lịch khác của 3 tỉnh. Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng, gồm hệ thống 3 ngôi đền chính: Hạ - Trung - Thượng thờ Thánh Mẫu Thượng ngàn công chúa Quế Mị Nương con của vua Hùng Vương thứ IX - người có công khai mở ra vực mỡ, dẫn nước nhập điền, dạy nhân dân cách trồng trọt chăn nuôi. Đền Suối Mỡ với những nét cổ kính và những giá trị văn hóa lịch sử được lưu giữ tại đây đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1988. Lễ hội đền Suối Mỡ diễn ra hằng năm vào ngày 30 tháng 3 và mồng 1, mồng 2 tháng 4 Âm lịch nhằm cầu mong mùa màng tốt tươi và cũng là dịp để mọi người tỏ lòng biết ơn với công chúa Quế Mỵ Nương thu hút hàng nghìn du khách thập phương đến cầu phúc, cầu tài... Lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2015. Cùng đó, Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có những di tích phụ cận khác như: Đền Trần, đền Cậu Bé Lệch, đền Cô Bé Cây Xanh, đền Quan...; những di tích lịch sử về một thời hào hùng của dân tộc như: Bãi Quần Ngựa, khu Ba Dinh Bảy Nền thời nhà Trần...; những di tích mang đậm dấu ấn Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử như: Chùa Hồ Bấc, chùa Hòn Trứng... tạo ra quần thể du lịch văn hóa, tâm linh Suối Mỡ. Một trong những điểm khiến bất cứ du khách nào đã từng đến Suối Mỡ không thể quên được đó chính là vẻ đẹp sinh thái của núi, rừng, suối, thác nơi đây. Nằm trải dài trên diện tích hàng ngàn ha, hệ thống rừng nguyên sinh của Suối Mỡ hết sức phong phú và đa dạng là điều kiện phát triển bền vững loại hình du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng. Suối Mỡ có hai hệ thống thác chính là thác Suối Mỡ và thác Thùm Thùm mang vẻ đẹp kỳ vĩ và nên thơ. Mỗi hệ thống thác lại có nhiều bậc thác hùng vĩ, mỗi bậc mỗi vẻ và đặc biệt dưới chân những bậc thác này đều có những bồn tắm tự nhiên hết sức kỳ thú. Đến với Suối Mỡ vào những buổi trưa hè nắng nóng, du khách sẽ được ngâm mình trong làn nước trong mát rồi để mặc cho làn nước từ trên cao dội xuống mơn man khắp cơ thể như một môn vật lý trị liệu giúp xua tan đi những căng thẳng mệt mỏi sau những ngày làm việc vất vả hay chọn cho mình không gian riêng trên những chiếc ghế, chiếc giường bằng đá để nghỉ ngơi và cảm nhận vẻ đẹp của núi rừng Suối Mỡ. Trong Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ còn có hồ chứa nước Suối Mỡ với tổng diện tích mặt nước hơn 30 ha, quanh lòng hồ là những bãi cỏ xanh bằng phẳng thích hợp cho các loại hình du lịch như: Dã ngoại cắm trại, câu cá, bơi thuyền… Cùng đó, với hệ thống rừng nguyên sinh, cao nguyên đá Suối Mỡ là điểm đến hấp dẫn của các bạn trẻ đam mê loại hình du lịch phượt, leo núi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Suối Mỡ được xác định là điểm nhấn quan trọng trong phát triển du lịch của tỉnh Bắc Giang, luôn được chú trọng đầu tư xây dựng. Thời gian qua, cơ sở hạ tầng Khu du lịch sinh thái Suối Mỡ từng bước được hoàn thiện. Nhiều hạng mục đầu tư quan trọng với tổng số tiền hàng trăm tỷ đồng như: Công trình hồ Suối Mỡ, khu rừng bảo vệ cảnh quan Suối Mỡ, dự án đầu tư hạ tầng khu du lịch; nâng cấp sửa chữa đền Hạ, nhà hát Văn và khuôn viên; cầu treo Đền Trần; công trình tuyến đường du lịch quanh hồ Suối Mỡ; công trình tu bổ, tôn tạo khu di tích đền Trung…
Bắc Ninh
Từ tháng 1 đến tháng 12
6158 lượt xem