Lễ hội Đền Chu Hưng ở xã Ấm Hạ, huyện Hạ Hòa gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của di tích lịch sử Quốc gia Đền Chu Hưng. Đây là nơi thờ tự Côn Nhạc Đại Vương - người có công đánh giặc bảo vệ giang sơn bờ cõi Chu Hưng vào thời kỳ Vua Hùng thứ 18 - Hùng Duệ Vương. Nhân dân Chu Hưng tỏ lòng thương kính Côn Nhạc Đại Vương nên đã tấu trình lên vua Gia Long xin xây ngôi đền để đời đời khói hương phụng thờ Ngài. Vào tháng 7 - 1806 vua Gia Long đã chính thức chuẩn tấu cho nhân dân Chu Hưng khởi công xây dựng ngôi đền, tọa lạc ở địa thế của một vùng đất linh thiêng, trên đỉnh quy sơn xa xa nơi cửa đền là đỉnh núi Kim Quy - Rùa Vàng. Từ đó đến nay, cứ vào ngày lễ Tết, nhân dân Ấm Hạ nói riêng và nhân dân Hạ Hòa nói chung lại tổ chức thắp hương tế lễ để tỏ lòng tôn kính vị thần và mở hội làng vào ngày mùng 7 tháng Giêng hàng năm. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2794 lượt xem
Đình đền làng Mạo Phổ còn lưu giữ nhiều hiện vật quý, có giá trị như 6 đạo sắc phong, khám thờ, kiệu, những bức cổn chạm khắc rồng phượng bằng gỗ có niên đại cuối Lê đầu Nguyễn… Hằng năm, vào 4 dịp kỳ cầu, người dân làng tổ chức lễ hội với phần tế lễ, rước kiệu và những trò chơi dân gian đặc sắc. Đình đền Mạo Phổ đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa kiến trúc cấp quốc gia năm 1993. Khu di tích đình đền Mạo Phổ được xây dựng từ thời Hậu Lê với quy mô kiến trúc chia làm 2 phần: đình và đền. Đình và đền nằm trên một khu đất rộng, bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, hướng về phía Đông nhìn ra bãi bên bờ sông Thao. Hiện nay, ngôi đình cũ đã được những người con của làng quê Mạo Phổ đã phát tâm tu sửa, nâng toàn bộ kiến trúc đình lên cao cho trang nghiêm hơn, rộng rãi hơn, xứng đáng hơn với tầm vóc của các vị thần thánh tại đây. Miếu Đức bà Mạo Phổ là nơi thờ phụng Thánh mẫu Duyên Hòa, trước đây được lập ở một nơi riêng biệt. Trong quá trình xây dựng đường đê đi qua làng, miếu cũ đã được dời đến nơi mới trong cùng khuôn viên với đình và đền làng. Trong miếu còn lưu được di tượng của Thánh mẫu linh thiêng và uy nghiêm. Không chỉ đình đền miếu được người dân Mạo Phổ làm lại cho trang nghiêm hơn mà vào dịp này, nhờ một nhân duyên hiếm có, nội dung bản ngọc phả làng Mạo Phổ bị thất lạc trước đây đã được đưa về đúng với nơi thờ tự của nó. Với điềm chim Phượng ngậm chiếc bút ngọc bay đến trong tiếng sấm nổ khi các vị Đại vương Bút Lôi Mao ra đời cho phép liên hệ với dòng Phượng theo mẹ Tiên Âu Cơ lên núi, sáng tạo ra những chiếc trống đồng vang vọng như tiếng sấm, trên đó khắc đúc hình người đội lông mao, là sự xưng danh dân tộc trường tồn từ thời Hùng Vương. NGUỒN: Bách Việt trùng cửu
Phú Thọ 2938 lượt xem
Đình làng Hà Thượng nằm về phía Đông của làng Hà Thượng, thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; cách quốc lộ 1A chưa đầy 1 km về phía Đông và cách đường 75B khoảng 800m về phía Bắc. Đình có diện tích 8.450m2, nằm tại vị trí đắc địa, lưng tựa vào xóm làng, mặt hướng ra hồ lớn và cánh đồng trù phú. Phía xa xa trước mặt đình là một dải đất cao như tấm bình phong. Vị trí này phù hợp với phong thuỷ của người Việt. Theo các tài liệu lưu trữ, đình làng Hà Thượng được xây dựng năm Chính Hoà thứ 11 (năm 1690). Đến năm Thành Thái thứ 15 (1903), ngôi đình được đại trùng tu và xây mới một số công trình khác như cổng ngõ, tường thành. Phương pháp sử dụng tường gạch và cột xi măng đã được áp dụng. Hệ thống cột cù, cột hiên được thay bằng các trụ gạch đắp vữa và trang trí. Hệ thống tường cũng đã được xây lên xung quanh hai gian tiền sảnh…Toàn bộ khuôn viên bao gồm một tòa đại đình và 4 ngôi miếu thờ 4 vị thần: Miếu thờ Thành hoàng, hai miếu thờ hai vị khai khẩn họ Lê và họ Nguyễn, miếu thờ ông Lê Hiếu. Cấu trúc bộ khung gỗ chịu lực được thực hiện theo mô thức của một ngôi nhà rường 3 gian 2 chái, phân bố theo 6 hàng cột. Trên bộ mái lợp ngói, mái thẳng, độ dốc vừa phải; bờ nóc, bờ quyết, đầu đao gắn các mảng trang trí rồng chầu nguyệt, giao hồi văn, giao lá bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bên trong ngôi đình được phân thành hai phần. Phần tiền đường gồm không gian của gian chái trước và hai gian ngoài dùng làm nơi sinh hoạt văn hóa, hội họp, ăn uống. Phần hậu liêu gồm không gian của gian chái sau và một gian trong dùng làm nơi thờ cúng, tế tự. Hệ thống cổng và tường thành phía trước đình được xây bằng gạch, xi măng; nền móng khá cao được xây bằng đá bazan. Các ngôi miếu thờ ở trong khuôn viên đình làng Hà Thượng đều có cổng và tường khép kín. Cấu trúc theo kiểu nhà rường một gian hai chái, các miếu đều có dạng gác lửng dựa trên bốn cột chính của bộ khung gỗ, có chức năng làm bệ thờ. Với lối xây dựng này, đình làng Hà Thượng được xem là sản phẩm tiêu biểu duy nhất còn sót lại thể hiện kiến trúc đình làng của miền Trung vào thế kỷ XVII. Đây là ngôi đình mà theo đánh giá của các nhà nghiên cứu lịch sử và mỹ thuật là cổ nhất, còn sót lại trong hệ thống di tích đình làng tại Quảng Trị với lối kiến trúc độc đáo nhất miền Trung; đây cũng chính là nơi thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Do Linh - Chi bộ Chợ Cầu. Với những giá trị lịch sử và kiến trúc Đình làng cổ Hà Thượng được công nhận di tích quốc gia năm 1991. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 2831 lượt xem
Bến đò Tùng Luật là một trong những khu di tích lịch sử đặc biệt nổi tiếng, góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta. Vào ngày 6/1/1950, ngay chính tại bến đò, Trung đoàn 95 và Đại đội 354 vượt sông, đánh bại quân Pháp tại đồn Cửa Tùng. Qua đó khẳng định sức mạnh, ý chí chiến đấu quật cường và tinh thần đấu tranh giải phóng dân tộc của quân và dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân các xã đông Vĩnh Linh và Gio Linh đã hợp lực phá tan các đợt càn quét của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm lính Pháp, tề ngụy, phá hủy nhiều phương tiện quân sự hiện đại của chúng. Bến đò Tùng Luật đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, là cầu nối giữa hai bờ nam bắc, góp phần cùng với nhân dân cả nước đánh tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneve được ký kết, tưởng chừng đất nước sẽ hưởng hòa bình, độc lập, tuy nhiên, bến đò Tùng Luật lại phải bước vào những trang sử đầy máu, nước mắt. Lịch sử chống Mỹ-ngụy của bến đò Tùng Luật bắt đầu từ những chuyến đò xuyên màn đêm, bí mật đưa chiến sĩ, cán bộ quân báo vào Nam hoạt động trong những năm 1956-1965. Trong những chuyến đò đó có vị khách đặc biệt được bí mật đón qua sông, đó là Bí thư thứ nhất Lê Duẩn. Phải chịu những thất bại cay đắng của ngụy quyền Sài Gòn trước phong trào cách mạng ở miền Nam, quân Mỹ trực tiếp tham chiến. Bến đò Tùng Luật một lần nữa trở thành tâm điểm của cuộc chiến giữa chính nghĩa và bạo tàn. Với mật danh là “Bến đò B”, Bến đò Tùng Luật lại là cầu nối hai bờ bắc-nam sông Hiền Lương, là một trong những điểm xuất phát của đường Hồ Chí Minh trên biển, điểm khởi đầu của tuyến giao thông duy nhất nối đất liền với đảo Cồn Cỏ anh hùng. Đại đội dân quân thôn Tùng Luật được thành lập với quân số 110 người, có nhiệm vụ bảo vệ bến đò, chuyên chở bộ đội, dân quân, dân công hỏa tuyến và lương thực, vũ khí, đạn dược. Bến đò B chuyên chở các đoàn dân công hỏa tuyến của các xã: Vĩnh Long, Vĩnh Tân, Vĩnh Trung, Vĩnh Tú, Vĩnh Thành, Vĩnh Hòa... qua sông vào Nam phục vụ cuộc tấn công cứ điểm đồi 31, 28, Quán Ngang, Cửa Việt. Cũng trong thời gian chiến tranh ác liệt này, Bến đò B Tùng Luật được giao thêm nhiệm vụ vận chuyển, đưa người dân khu vực phía nam sông Bến Hải sơ tán ra miền Bắc. Bến đò B Tùng Luật đưa được gần 1,4 triệu lượt chiến sĩ, dân quân, dân công hỏa tuyến qua lại. Cũng chính bến đò này là điểm xuất phát của Đại đội 22, đơn vị cảm tử vận chuyển vũ khí đạn dược, thuốc men, lương thực cho đảo Cồn Cỏ bị hải quân Mỹ và chính quyền Sài Gòn phong tỏa. Hằng đêm, khi giông tố, biển động, mỗi con thuyền mang trên mình một tiểu đội dân quân được truy điệu sống trước khi lên thuyền ra đảo. Những dân quân vốn là những người dân đánh cá hiền lành bỗng trở thành chiến sĩ, sẵn sàng để “Sóng gọi hồn ta về đảo nhỏ”. Với những chiếc thuyền gỗ, thuyền nan chạy buồm, chèo tay xuyên màn đêm vào những thời khắc biển động, từ năm 1965 đến 1972, Đại đội 22 đã vận chuyển hàng nghìn tấn đạn dược, vũ khí, lương thực, thực phẩm cho đảo Cồn Cỏ, góp phần giữ vững tiền đồn của Tổ quốc trên Biển Đông. Bến đò B là điểm sinh tử vô thường nhất của đất nước thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Biết bao người con của đất Tùng Luật và nhiều miền quê khác của đất nước đã nằm lại nơi đây với máu, xương hòa trộn nước sông Hiền Lương và bùn cát của đáy sông này. Nhờ những đóng góp to lớn trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, vào năm 1996, di tích lịch sử bến đò Tùng Luật đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia. Để khắc ghi những kỳ tích của quân, dân đã chiến đấu và hy sinh anh dũng, tại bến đò này đã xây dựng tượng đài Bến đò B. Tượng đài được xây trên một diện tích khoảng 100m2. Tuy nhiên, theo các nhân chứng lịch sử và các nhà nghiên cứu, quy mô cấu trúc và hồn phách của tượng đài chưa thật sự tương xứng với những kỳ tích to lớn của quân, dân ta, nhất là sự hy sinh của rất nhiều chiến sĩ trên mảnh đất này. Vì vậy, cán bộ và người dân thôn Tùng Luật, người dân Vĩnh Giang, Vĩnh Linh và những người lính từ nhiều miền đất nước từng chiến đấu nơi đây, những người có con, em đã nằm lại nơi này rất mong muốn và đề nghị chính quyền địa phương, cơ quan chức năng tỉnh Quảng Trị sớm nghiên cứu, tu bổ, nâng tầm di tích lịch sử Bến đò B Tùng Luật cho tương xứng với chiến tích lịch sử hào hùng của địa danh này. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị 2836 lượt xem
Chùa Phúc Ân được xây dựng vào thời hậu Lê (thế kỷ thứ 18), đại trùng tu vào năm 1972. Hiện nay, tòa Tam bảo chùa Phúc Ân vẫn giữ nguyên dáng vẻ kiến trúc cổ với mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Khẩu gồm: Tòa Tiền đường, hai dãy tả, hữu hành lang và tòa Chính điện. Tòa Tiền đường 5 gian 2 dĩ, 6 hàng chân cột với tổng số 40 cột, có 4 bộ vì kèo giữa kết cấu theo kiểu chồng đấu cột đội con lợn, hai vì đốc kết cấu chồng, giá chiêng. Bộ khung gỗ được liên kết cột xà - kẻ chuyền chắc khỏe, đóng bén bào trơn, các chân cột kê trên đá tảng, mái lợp ngói mũi thời Lê. Nét độc đáo ở tòa Tiền đường là tạo mái hiên rộng hơn để chắn nắng, gió mưa, chỉ có 2 đầu đao cong mái trước, phần cổ diêm làm song bưng ván, hệ tường xây gạch nhưng để hàng cột hai đốc chạy dài thông với hành lang nối thượng điện tạo sự bề thế cho ngôi chùa khi đứng ở mọi hướng. Hai dãy tả, hữu hành lang chạy song song nối Tiền đường và Thượng Điện thực chất bên trong mỗi bên 3 gian, song nhìn từ phía sau lại là 6 gian dài thông suốt. Mỗi dãy có 3 hàng chân cột tổng số cả dãy là 18 cột gỗ. Kiến trúc ở đây cho thấy sự tính toán chính xác, khéo léo của nghệ nhân xưa: Với 3 hàng cột đứng đất và một hàng chân cột đội trên xà ngang để tạo thành hai mái nhà cân xứng mà diện tích sử dụng không bị hẹp, lòng nhà được mở rộng nhờ các kẻ truyền liên tiếp đó là kỹ thuật truyền thống của Việt Nam. Tòa Chính điện làm song song với Tiền đường, được bố trí cao hơn qua cách làm giật cấp. Thượng điện gồm 3 gian, 5 hàng chân cột với 18 cột gỗ, hệ mái độc đáo theo kiểu "Tiền tam, hậu nhị", tường hồi bít đốc, phần cổ diêm của mái trước của mái được làm chấn song con tiện thông thoáng, 4 vì kèo kiểu thức "Thượng giá chiêng, chồng rường - hạ kẻ", trần lát ván gỗ lim tiêu biểu cho truyền thống nhà cổ Việt Nam. Chùa Phúc Ân hiện có 22 pho tượng thờ được bài trí hai bên trong tòa Tiền đường và các lớp tượng trên Thượng điện giật cấp trong tòa Chính điện. Trong đó, tiêu biểu là bộ tượng Tam thế mang phong cách nghệ thuật tạo tác tượng tròn thế kỷ 18. Chùa Phúc Ân hiện bảo lưu hệ thống di vật, cổ vật có giá trị, tiêu biểu: Chuông đồng "Phúc Ân tự trung", cao 0,90m, đường kính 0,50m; Khánh đồng dài 1,05m, rộng 0,90m. Chuông và khánh được đúc vào năm Minh Mệnh tam thập tam niên -năm 1832, quai chuông và khánh được tạo thành những vân kỷ hà, khánh được tạo dáng hình một chiếc lá đề khổng lồ. Trên thân chuông và khánh khắc chữ Hán ghi tên những người công đức tu sửa chùa Phúc Ân. NGUỒN: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN LÂM THAO
Phú Thọ 2547 lượt xem
Đình Hạ Bì Trung nằm trong hệ thống các di tích lịch sử thờ Đức Tản Viên Sơn thánh, Cao Sơn, Quý Minh ở vùng ven sông Đà và vùng trung du Bắc Bộ. Đình được làm bằng tranh, tre, nứa lá ngay sau khi dân làng chuyển từ hữu ngạn về tả ngạn sông Đà vào cuối thế kỷ 18. Đến năm Đinh Hợi năm 1827, ngôi đình được xây dựng bằng gỗ đinh, lim, tường xây, ngói lợp trên một thế đất bằng phẳng, nhìn theo hướng Đông Nam. Bên cạnh Tản Viên Sơn tam vị, Đình Hạ Bì Trung còn thờ Thành hoàng làng đã có công khai dân, lập ấp, lập nên trang Hạ Bì; cùng phối thờ còn có Bản thổ long cung, Tiên Dung công chúa, Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp – người có công truyền bá chữ Hán vào Việt Nam. Sau một thời gian dài với những thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhiều hạng mục công trình của đình đã bị hư hỏng. Những nét truyền thống còn lưu giữ lại được đó là hệ thống dui mè, hoành, bộ câu đầu, 8 cột cái, ban thờ ba vị thánh Tản Viên Sơn, bát nhang, hai sáp cắm nến, ống hoa… và nghi thức tế lễ vẫn được thực hiện theo các nghi lễ truyền thống. Năm 2007, được phép của ủy ban nhân dân tỉnh, nhân dân trong làng đã đóng góp, công đức trên 500 triệu đồng tu bổ và phục dựng lại một số hạng mục công trình trong di tích. Ngày 13-3, bà con nhân dân trong xã Xuân Lộc (Thanh Thủy) và du khách thập phương đã vui mừng đón bằng công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia cho đình Hạ Bì Trung. NGUỒN: BÁO PHÚ THỌ
Phú Thọ 2516 lượt xem
Mỹ Thuỷ là một làng nằm phía Nam của xã Hải An, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cách thị trấn huyện lỵ Hải Lăng và quốc lộ 1A chừng 15 km về phía Đông theo tỉnh lộ 8. Địa điểm khu vực phía Bắc đường tỉnh lộ 8, đầu làng Mỹ Thuỷ là Trung tâm diễn ra vụ thảm sát làng Mỹ Thuỷ năm 1948 đã được bộ văn hoá thông tin xếp hạng di tích quốc gia theo quyết định số 38-2001/Quyết Định -Văn Hóa Thể Thao ngày 12 tháng 7 năm 2001. Mỹ Thuỷ là một làng biển nằm trên triền Đông của cồn cát đại trường sa được hình thành tương đối muộn từ sau thế kỷ XVII. Cũng như nhiều làng biển khác trên vùng đất Quảng Trị, người dân Mỹ Thủy từ lâu đời đã gắn chặt cuộc sống của mình với biển bằng sự chống chọi với sóng gió và những nỗi lo toan vất vã cực nhọc trong kế mưu sinh. Chính trong hoàn cảnh đó đã hun đúc nên trong con người Mỹ Thuỷ đức tính chịu thương, chịu khó, đôn hậu, bao dung và một tấm lòng khẳng khái, kiên trinh, bất chấp kẻ thù để đi theo cách mạng. Trong những năm 1930-1945, phong trào cách mạng ở Mỹ Thuỷ dưới sự chỉ đạo của chi bộ Triệu Lăng đã có những hoạt động tích cực, góp phần cùng cả vùng Hải Lăng làm nên thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945. Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, Mỹ Thuỷ là một thôn của xã Hải Châu. Từ khi thực dân Pháp quay trở lại bình định Quảng Trị (tháng 01 năm 1947), do có nhiều ưu thế về chiến lược nên Mỹ Thuỷ vừa là vùng giáp ranh vừa là vùng tự do) để khống chế và làm chủ địa bàn nhưng vẫn không thể lập được hội tề. Phong trào cách mạng vẫn luôn duy trì và phát triển. Dựa vào vị trí giao thông thuỷ bộ thuận lợi lại xa trung tâm chính trị của Mỹ Thuỷ, bộ đội chủ lực, cán bộ kháng chiến đã chọn đây làm địa bàn dừng chân, củng cố lực lượng, tiến hành chiến tranh du kích. Nhân dân Mỹ Thuỷ một lòng theo Đảng, theo kháng chiến. Đặc biệt, sau năm 1947, chiến trường Trị Thiên gặp nhiều khó khăn: dân đói , cán bộ, bộ đội thiếu lương thực, thuốc men, đạn dược ... Quân khu IV đã tổ chức vận động các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh chi viện để giúp Trị Thiên tiếp tục kháng chiến. Do không có điều kiện vận chuyển đường bộ nên hàng hoá phải vận chuyển bằng đường biển và tập kết ở các vùng bãi ngang, xa tầm kiểm soát, khống chế của chính quyền Pháp và tay sai. Ở Mỹ Thuỷ đường giao thông liên lạc tiếp tế vận tải Bình Trị Thiên đã nhiều lần tập kết và phân tán hàng hóa, vũ khí trót lọt. Chính điều này đã làm cho quân Pháp vô cùng cay cú và điên cuồng tìm cách tiêu diệt phong trào cách mạng tại Mỹ Thuỷ, liên tục tổ chức các cuộc càn quét, đốt phá và gây ra những tội ác dã man. Kể từ khi tiến quân bình định Quảng Trị ( tháng 01 năm 1947 – ngày 08 tháng 4 năm 1948), quân Pháp đã tiến hành 3 lần càn quét, đốt phá thôn Mỹ Thuỷ . Ngày 05 tháng 3 năm 1947 (ngày 2 tháng 2 năm Đinh Hợi), quân Pháp tràn vào làng Mỹ Thuỷ đốt cháy gần hết nhà cửa, giết chết 3 người. Trong các ngày 17,18 và 19/3 /1948, thực dân Pháp đã huy động lực lượng đồng loạt càn quét vào các thôn xóm thuộc vùng đồng bằng Hải Lăng với chiến dịch mang tên “Tuần lễ Hải Lăng”. Trong đợt càn quét quy mô này, chúng đã giết hại hơn 1.300 người, đốt cháy hàng ngàn ngôi nhà, cướp đi rất nhiều tài sản, trong đó có làng Mỹ Thuỷ. Ngày 19/3/1948, Chỉ sau 1 giờ đồng hồ gây tội ác rồi rút đi, quân đội Pháp và tay sai đã giết chết 74 người dân Mỹ Thuỷ vô tội; Trong đó phần lớn là đàn ông trung niên, trụ cột gia đình. Hàng trăm mét lưới, ngư cụ và hơn 20 xuồng đánh cá bị phá huỷ hoàn toàn. Đây vừa là cuộc thảm sát vừa là đòn đánh vào kinh tế hồng đè bẹp tinh thần, ý chí kháng chiến của nhân dân Mỹ Thuỷ. Chưa đầy 20 ngày sau vụ thảm sát, khi cỏ trên những nấm mồ của những người bị giết ngày 19 tháng 3 còn chưa kịp mọc thì ngày 08 tháng 4 năm 1948, thực dân Pháp lại tiến hành một cuộc tàn sát, đốt phá dã man hơn, tàn bạo hơn theo đúng nghĩa “3 sạch” vào dân làng Mỹ Thuỷ. Sau hơn 3 giờ thoả sức đốt phá, hãm hiếp cướp bóc, quân Pháp mới chịu rút quân để lại một làng Mỹ Thuỷ hoang tàn, tang tóc; cát trắng loang lổ máu người, hàng đống thịt xương ngập ngụa trong những ngôi nhà đang cháy. Cả làng chỉ sót lại một vài đứa trẻ và chưa đầy 20 người. Có 452 người dân vô tội đã bị sát hại cùng toàn bộ nhà cửa, ngư cụ của dân làng Mỹ Thuỷ bị huỷ hoại hoàn toàn. Đây là một vụ thảm sát dã man và có số lượng người chết nhiều nhất mà thực dân Pháp đã gây ra cho đồng bào Quảng Trị. Vụ thảm sát Mỹ Thuỷ năm 1948 là bằng chứng hùng hồn về tội ác giết người dã man của thực dân Pháp đối với nhân dân Mỹ Thuỷ nói riêng và nhân dân Quảng Trị nói chung; là nỗi đau thương mất mát, nhưng cũng là biểu thị một truyền thống đấu tranh anh dũng, kiên cường của những người đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 2883 lượt xem
Di tích lịch sử văn hóa chùa Hoàng Long, xã An Đạo - huyện Phù Ninh là ngôi chùa cổ có niên đại hơn 300 năm, là một trong những di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu, nơi hội tụ những giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, tâm linh vượt trội, được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định ngày 19/01/2001, đã được chính quyền các cấp từ tinh, huyện, đền cơ sở có nhiều chính sách quan tâm, tạo cơ chế đề Ban trị sự phật giáo tỉnh cử sư thầy về trực tiếp quản lý, nhiều chính sách đầu tư tu bổ, trùng tu, tôn tạo, xây mới nhiều hạng mục công trình. NGUỒN: TỈNH PHÚ THỌ
Phú Thọ 2778 lượt xem
Đầu năm 1968, Khe Sanh - Hướng Hóa bỗng nhiên được cả thế giới chú ý, theo dõi khi Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương quyết định mở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh. Không chỉ đội ngũ cố vấn quân sự của Mỹ ở Sài Gòn mà ngay cả những chuyên gia quân sự hàng đầu của nước Mỹ cũng bị “mất phương hướng” khi cho rằng sẽ có một “Điện Biên phủ khác” ở Khe Sanh. Tổng thống Mỹ B.Johnson chỉ đạo thiết lập “Phòng tình hình đặc biệt”, làm sa bàn Khe Sanh ở Washington, yêu cầu tướng Westmoreland - Tư lệnh Bộ chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam phải ký giấy cam đoan không được để mất Khe Sanh bằng mọi giá vì đó là danh dự của nước Mỹ. Thung lũng Khe Sanh nằm ở vùng rừng núi heo hút phía tây Quảng Trị, được xác định là một trong những địa bàn chiến lược ở khu vực giáp ranh giới tuyến. Năm 1966, tại khu vực nam vĩ tuyến 17 đến đường 9 - Khe Sanh, Mỹ đã cho xây dựng tuyến phòng thủ vô hình, lấy tên là hàng rào điện tử McNamara. Ở vị trí “mỏ neo” khu vực ngã ba biên giới, Khe Sanh được định vị là một trong ba mắt thần của hàng rào điện tử McNamara, nơi Mỹ tập trung xây dựng một tập đoàn cứ điểm mạnh gồm Chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm Làng Vây và sân bay Tà Cơn, được trang bị đầy đủ các loại vũ khí hiện đại, tối tân nhất lúc bấy giờ với nhiều hệ thống công sự dày đặc có sự yểm trợ bằng máy bay B52, cùng với đội quân tinh nhuệ nhằm cắt đứt tuyến chi viện trên đường mòn Hồ Chí Minh, ngăn chặn quân ta từ Bắc vào, từ Lào sang và làm tấm bình phong che chắn cho khu vực phòng thủ của chúng ở phía Đông đường 9. Vào thời điểm đầu năm 1968, có nhiều nguyên nhân khiến người Mỹ tin rằng quân giải phóng sẽ thực hiện trận quyết chiến chiến lược ở Khe Sanh. Đầu tiên, từ sự tương đồng về yếu tố địa hình và vai trò chiến lược giữa lòng chảo Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Tiếp đến, Mỹ tin rằng với sự “từ bỏ” địa bàn truyền thống nông thôn của ta thì rừng núi sẽ là bàn đạp để ta đánh vào đồng bằng và đô thị. Từ cấp chỉ huy cho đến viên đại sứ Mỹ, tất cả đều phán đoán quân giải phóng không đủ sức tấn công vào các thành phố, đô thị mà đó chỉ là “đòn nghi binh”; chiến trường chính nhất định sẽ diễn ra ở Khe Sanh. Trung ương Cục miền Nam còn cố ý để rơi những tài liệu khiến Mỹ càng tin rằng Khe Sanh chính là nơi diễn ra một cuộc quyết chiến chiến lược. Về phía ta, sau những thắng lợi giành được trong mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12/1967 nhận định: Chúng ta đã thắng địch cả về chiến lược và chiến thuật, lực lượng quân sự và chính trị của ta ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào, ta đang nắm quyền chủ động trên khắp chiến trường. “Diễn biến cơ bản của tình hình là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn”. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị chủ trương mở: “đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch…” Thực hiện chủ trương chiến lược trên, thể theo đề nghị của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh xuân hè 1968. Bộ Tổng tư lệnh điều động cho chiến dịch một lực lượng mạnh, gồm 4 sư đoàn (304, 320, 324 và 325), Trung đoàn 270 và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, 1 tiểu đoàn và 5 đại đội đặc công, 5 trung đoàn pháo binh (45, 84, 164, 204 và 675), 3 trung đoàn pháo phòng không (128, 282, 241), 1 tiểu đoàn xe tăng (4 đại đội), 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn trinh sát, 1 tiểu đoàn phòng hóa, 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội súng phun lửa, 6 tiểu đoàn vận tải và lực lượng vũ trang địa phương các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa. Toàn bộ lực lượng trên được chỉ huy thống nhất của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, do Thiếu tướng Trần Quý Hai - Phó Tổng Tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy. Tại thời điểm ta mở chiến dịch, lực lượng địch phòng ngự ở Đường 9 - Khe Sanh có khoảng 45.000 quân, trong đó có 28.000 quân Mỹ (10 tiểu đoàn của Sư đoàn 3 thủy quân lục chiến, 9 tiểu đoàn pháo, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới; được bố trí thành tuyến trước ở phía đông: từ cứ điểm 31, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Quán Ngang đến miếu Bái Sơn; tuyến sau là Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử và thị xã Quảng Trị; tuyến giữa là các cứ điểm Tân Lâm, Ca Lu, 241 (phía tây thị xã Quảng Trị); khu vực phía tây gồm các cứ điểm Hướng Hóa, Làng Vây, Huội San và cụm cứ điểm Tà Cơn (gồm các cứ điểm Động Tri, 832, 845…). Với quyết tâm “Biến Khe Sanh thành địa ngục trần gian của quân Mỹ”, ngày 20/01/1968, ta mở chiến dịch đường 9 - Khe Sanh. Sau 170 ngày đêm liên tục tiến công, vây hãm, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 480 máy bay, 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối cỡ lớn, 55 kho xăng và đạn, thu hàng ngàn súng các loại, kết thúc thắng lợi Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh lịch sử, huyện Hướng Hóa được giải phóng hoàn toàn với hơn 10.000 dân. Thắng lợi của chiến dịch đường 9 - Khe Sanh đã chứng tỏ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc đấu trí, đấu lực với kẻ thù, không chỉ với Bộ chỉ huy quân sự Mỹ mà còn cả với những nhà hoạch định chiến lược “sừng sỏ” ở Nhà Trắng. Chiến thắng Khe Sanh là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 2923 lượt xem
Di tích lịch sử Xưởng Đội Cấn – Nhà máy Quân giới k77 (1947-1954) ở xóm Đồng Làn, xã Đồng Thịnh, ATK Định Hóa. Ngày 15/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký chỉ thị thành lập Phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc Phòng, với nhiệm vụ: thu thập, mua sắm và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí để trang bị cho quân đội. Xưởng Đội Cấn (Nhà máy Quân giới K77) thuộc Cục Quân giới Quân đội Nhân dân Việt Nam là Nhà máy chủ lực sản xuất đạn dược, vũ khí, đóng góp to lớn vào thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), xây dựng nền tảng ngành Quân giới Việt Nam (nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) góp phần cùng quân dân cả nước giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xưởng Đội Cấn cùng các xưởng Quân giới các liên khu kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn quốc góp sức làm nên thành quả to lớn của ngành Quân giới Việt Nam. Cục Quân giới ( nay là Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, Huân chương sao vàng, hai Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng nhất, hàng trăm Huân chương Chiến công, Huân chương Lao động. 17 tập thể và 58 cá nhân được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, trong đó có 3 nhà máy Z111, Z121, Z113 được tuyên dương Anh hùng hai lần… Di tích Xưởng Đội Cấn được Cục Quân giới và Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng đầu tư, tôn tạo xây dựng khuôn viên, hàng rào với Tổ hợp phù điêu gốm nghệ thuật “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công nhân Quân giới” Nhà trưng bày bổ sung di tích– thư viện phục vụ nhân dân xã Đồng Thịnh và khách tham quan di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Xác định là Cội nguồn của Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng ở Căn cứ địa Việt Bắc . Các điểm di tích lịch sử trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quần thể Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa và.trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng, học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Để phát huy tốt tiềm năng giá trị di tích lịch sử và thực hiện chức năng nhiệm vụ Ban quản lý Khu di tích Lịch sử – Sinh thái ATK Định Hóa, Thái Nguyên nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học dựa trên giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học của di tích trình Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ngày 9/3/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện đã ký quyết định số 814/QUYẾT ĐỊNH BỘ VĂN HÓA xếp hạng di tích quốc gia đối với địa điểm di tích lịch sử Cơ quan Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam và nơi ở, làm việc của Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái (1949 – 1954) và quyết định số 813/QUYẾT ĐỊNH BỘ VĂN HÓA THỂ THAO DU LỊCH di tích lịch sử Xưởng Đội Cấn – Nhà máy Quân giới k77 (1947-1954). NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 2906 lượt xem
Khu di tích lịch sử cơ quan Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949- 1954) gồm hai điểm chính là nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiêm văn phòng Quân ủy ở đồi Đỏn Mỵ (là đồi mít ) và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trên đồi Khau Cuổi (là rừng chuối ) thuộc thôn Bảo Biên, xã Bảo Linh, huyện Định Hóa. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1947- 1954), Bảo Biên được chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta chọn làm một trong những điểm trung tâm của căn cứ địa Trung ương (An toàn khu- gọi là ATK). Tại đây từng có các đồng chí lãnh đạo chỉ huy của Bộ Quốc phòng ở và làm việc như đồng chí Tạ Quang Bửu – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí Hoàng Văn Thái – tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam ở đình bản Khen. Sau ngày kháng chiến thành công Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần viết thư thăm hỏi và động viên đồng bào các dân tộc ở đây, mùa xuân năm 1989 và 12/ 8/ 1998 Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Bảo Biên, đã đến thăm nơi ở, làm việc năm xưa và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trong kháng chiến chống Pháp. Nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng quận uỷ nằm trên đồi Đỏn Mỵ, nhìn ra phía trước theo hướng Đông – Nam là cánh đồng Bảo Biên, có đường ô tô chạy qua, cắt ngang phía trước ngay sát di tích là con đường làng mới mở, bên phải, bên trái là nhà dân. Phía sau là dãy núi Lai Liệp nối liền với dải núi Hồng hùng vĩ, hiện nay qua khảo sát còn thấy 5 nền nhà to, nhỏ khác nhau được cây cối che phủ. Căn cứ vào kích thước, vị trí và lời kể của nhân chứng thì nền nhà lớn trên đỉnh đồi, giữa có một cửa hầm là nơi hội họp và làm việc. Phía trước là nhà gác, sau là bếp, bên trái là nhà ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Quân ủy cùng với nhân viên phục vụ, dưới chân đồi phía sau có một cái ao lau sậy um tùm xung quanh là ruộng của dân. Khu vực văn phòng Bộ tổng Tư lệnh nằm trên dải đồi thấp, đối diện phía trước cách nơi ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khoảng 700m về hướng Đông – Nam, xung quanh bên phải, bên trái, phía sau là rừng cọ, vào, phía trước nhìn lên hướng Tây – Bắc là cánh đồng Bảo Biên. Qua khảo sát thấy có hai nền nhà liền nhau còn rõ dấu tích, đó là hội trường lớn và văn phòng làm việc của Bộ tổng Tư lệnh, ngoài ra còn nhiều nền nhà to, nhỏ khác nhau nằm rải rác trên đồi Khau Cuổi, đó là nơi ở của bộ đội ta để bảo vệ khu căn cứ Bảo Biên. Toàn bộ khu di tích lịch sử Bảo Biên nằm trong một thung lũng nhỏ hẹp, bao quanh là rừng núi rất kín đáo, tiện lợi cho việc giữ gìn bí mật, nhưng cũng rất thuận lợi cho việc liên lạc đi các hướng. Từ đây có thể ra Chợ Chu, xuống Thái Nguyên, lên Chợ Đồn – Bắc Kạn, sang Sơn Dương – Tuyên Quang một cách dễ dàng. Bảo Biên là trung tâm đầu não quân sự của Đảng ta, tại đây Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh xây dựng các kế hoạch quân sự quan trọng trình lên thường vụ Trung ương Đảng, Hồ Chủ Tịch phê duyệt, chỉ huy, chỉ đạo nhiều chiến dịch lớn, trong đó có chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Bảo Biên có một vị trí quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Cùng với thời gian, do tác động của thiên nhiên cũng như con người nên di tích bị xuống cấp nhiều. Nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Văn phòng quân ủy và văn phòng Bộ tổng Tư lệnh trước đây được làm bằng tre, nứa, gỗ, không còn nữa, dấu tích nền nhà còn tương đối nguyên vẹn. Nhờ ý thức bảo vệ di tích của đồng bào, cả hai địa điểm của khu di tích không bị phá hại xâm lấn, đầu năm 1996 theo dự án đầu tư xây dựng vùng ATK của nhà nước, đường ô tô đã mở qua phía trước trung tâm khu di tích, làm đường xây bậc lên bằng gạch, xi măng vào nơi ở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và văn phòng Quân ủy, đường điện lưới quốc gia cũng đang được xây dựng. Cuối năm 1996 nhân dân địa phương huy động làm đường ô tô vào điểm di tích văn phòng Bộ tổng Tư lệnh. Cùng với các di tích trong vùng ATK Định Hóa như nơi hợp nhất đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với đội Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân (15/ 5/ 1945) tại Định Biên. Di tích chủ tịch Hồ Chí Minh ở Tỉn Keo xã Phú Đình, vượt qua Đèo De núi Hồng là khu di tích lịch sử Tân Trào (Tuyên Quang)… tạo thành một quần thể di tích cách mạng và kháng chiến, thuận tiện cho việc tham quan du lịch. Để phát huy tốt giá trị của di tích, cần tạo một môi trường tốt về đời sống vật chất, tinh thần, phải đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí trong vùng, phục hồi lại một vài điểm di tích quan trọng, xây dựng nhà bia ghi dấu sự kiện, dựng biển hướng dẫn để đón khách vào tham quan thường xuyên. Địa điểm di tích cơ quan Bộ tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam (1949 – 1954) tại Bảo Biên được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết định số: 43/1999-QĐ-BVHTT, ngày 12/07/1999, quân dân xã Bảo Linh được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống thực dân Pháp. NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 3194 lượt xem
Địa điểm khu trụ sở Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (từ tháng 6/1973 đến tháng 5/1975) nằm ở thôn Tân Hòa thuộc địa phận thị trấn Cam Lộ, huyện Cam Lộ; cách quốc lộ 9 hơn 200m về phía Bắc, cách thị xã Đông Hà 12km về phía Tây. Di tích đã được Bộ Văn Hóa Thể Thao xếp hạng quốc gia theo Quyết định số 154/Quyết Định - Văn Hóa ngày 25 tháng 01 năm 1991. Thuộc thị trấn Cam Lộ, cách Uỷ Ban Nhân Dân huyện Cam Lộ 150 m về phía Bắc, được khởi công xây dựng từ ngày 06/05/1973, đến ngày 30/05/1973 thì hoàn thành. Mặc dù được xây dựng khẩn trương trong một thời gian ngắn nhưng vẫn mang dáng vẻ bề thế, khang trang và đầy đủ các tiện nghi sinh hoạt thiết yếu. Tại đây, ngày 06/06/1973, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã làm lễ ra mắt nhân dân trong buổi lễ mít tinh long trọng, trước sự chứng kiến của đông đảo phóng viên báo chí trong và ngoài nước. Đại biểu của 19 nước anh em bầu bạn khắp 5 châu tới dự và cổ vũ nhiệt tình cuộc đấu tranh hy sinh gian khổ của nhân dân Miền Nam như đồng chí Phiden Catxtơrô - Chủ tịch Đảng cộng sản CuBa, đồng chí Gioóc-giơ-mác-xen - Bí thư Đảng cộng sản Pháp, ... Khu Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời từ khi ra đời đã tập hợp các lực lượng dân chủ đấu tranh đòi dân chủ và độc lập dân tộc, đại diện cho nhân dân Miền Nam nói lên tiếng nói của mình, là nơi đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước anh em bạn bè gần xa trên thế giới. Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời với những chiến lược, sách lược nhạy bén, sáng suốt đã lãnh đạo nhân dân Miền Nam đấu tranh đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đưa cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Hiện nay, trụ sở được Bảo tàng Quảng Trị xây dựng tượng đài kỷ niệm vào tháng 5/1993 và khôi phục lại Nhà Trình quốc thư. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 2586 lượt xem
Địa điểm di tích Tổng Bí thư Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng ở làm việc tại Nà Mòn, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), thực hiện đường lối “kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” bảo vệ độc lập dân tộc, Tổng Bí thư Trường Chinh cùng Văn phòng Trung ương Đảng di chuyển từ Hà Nội lên Phú Thọ, qua Tuyên Quang, Đèo Khế, Minh Tiến (huyện Đại Từ)…Điểm dừng chân đầu tiên của Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Lê Văn Lương cùng anh Lê Đức Thọ… tại An toàn khu (ATK) Định Hóa là ở nhà sàn của dân xã Quảng Nạp nay là xã Bình Thành, nơi giáp ranh với xã Minh Tiến, huyện Đại Từ, cửa ngõ vào ATK, có chợ quê kháng chiến, một thị tứ khá đông đúc đầu năm 1947 của chiến khu Việt Bắc. Cùng di chuyển, đặt cơ quan làm việc với đồng chí Trường Chinh, ngoài Văn phòng Trung ương Đảng còn có bộ phận biên tập, phóng viên báo Sự Thật của Đảng, Ban Tổ chức Trung ương chủ yếu di chuyển quanh dưới chân dãy núi Hồng từ xã Điềm Mặc lên xã Phú Đình… (Theo lời kể của Bà Nguyễn Thị Bích Thuận nguyên Phó Cục trưởng Cục Cảnh vệ, vợ cố ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức Trung ương Lê Văn Lương cùng con gái thăm lại chốn xưa ở ATK Định Hóa năm 2006) Dừng chân ở Quảng Nạp vài tháng, Tổng Bí thư cùng Văn phòng Trung ương di chuyển lên đồi Khuổi Khê, địa bàn xóm Phụng Hiển (Thanh Định, nay là xã Điềm Mặc), sau đó lại di dời lên xóm Na Mòn (xã Phú Đình), ở chân núi Hồng, gần dân, có đồng ruộng trải rộng phía trước. Từ đây đến đồi Thẩm Khen nơi Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm việc (1950 - 1953) khoảng 1km, cách cơ quan Phủ Chủ tịch Bác Hồ ở Tỉn Keo 2,5km. Có thể theo đường ngựa đi vượt Đèo De núi Hồng sang Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) có 6 – 7 km. Trong thời kỳ kháng chiến, đồng chí Trường Chinh cùng Văn phòng Trung ương Đảng di chuyển cùng các cơ quan Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Định Hóa sang Võ Nhai, lên Chợ Đồn (Bắc Kạn), sang Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang)…rồi lại quay về ở, làm việc, sống cùng đồng bào Tày, Nùng xóm Nà Mòn dưới chân núi Hồng, xã Phú Đình lâu nhất từ 1948 đến đầu năm 1954. Văn phòng Trung ương Đảng tại Nà Mòn là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Tổng Bí thư Trường Chinh, nhận các chỉ thị, báo cáo từ Đảng bộ các tỉnh, các liên khu và là nơi phát đi chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo, lãnh đạo ra toàn quốc. Tại đây thông qua nhiều chỉ thị, chủ trương, nghị quyết quan trọng, mở các chiến dịch lớn như hạ quyết tâm giải phóng, khai thông biên giới với nước bạn Trung Quốc (1950), chiến dịch Trung Du, chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc… Cũng tại đây đã chuẩn bị báo cáo chính trị, dự kiến nhân sự, tổ chức chuẩn bị văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II diễn ra tại Kim Bình, Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 1951… NGUỒN: Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hoá, Thái Nguyên
Thái Nguyên 2720 lượt xem
Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Tháng Mười năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng đã cùng đoàn tùy tùng theo đường biển tiến đến cửa Việt Yên (Cửa Việt) sau đó đi ngược sông Thạch Hãn (Quảng Trị) và dừng chân tại bãi cát có tên là Sa Khưu (sau này gọi là bãi Cồn Cờ) thuộc xã Ái Tử, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Vừa đặt chân lên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng được quan lại và nhân dân địa phương ủng hộ và ông đã quyết định chọn bãi cát này để đóng doanh trại. Đây là dinh phủ đầu tiên của Chúa Nguyễn tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong. Trong 68 năm trấn nhậm trên đất Vũ Xương, Triệu Phong, Nguyễn Hoàng đã 2 lần di dời dinh phủ. Lần thứ nhất là vào năm 1570, sau 12 năm đóng tại Ái Tử, ông cho chuyển dinh trấn của mình sang Trà Bát; lần thứ hai vào năm 1600, ông cho chuyển dinh phủ từ Trà Bát sang Dinh Cát. Việc di dời dinh phủ/dinh trấn là quá trình mở rộng quy mô và kiên cố hóa lỵ sở chứ không phải thay đổi không gian lỵ sở. Trước sau Nguyễn Hoàng vẫn chọn vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương làm trung tâm chính trị - hành chính, là nơi tập trung bộ máy đầu não cai quản toàn xứ Thuận - Quảng. Năm 1613, Nguyễn Hoàng qua đời, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên kế vị và ông tiếp tục thực hiện những dự định còn dang dở của cha mình. Đến năm 1626, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho chuyển dinh phủ vào vùng Phước Yên (nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế), chấm dứt 68 năm vùng đất Ái Tử - Trà Bát, huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong là lỵ sở của chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong hành trình 68 năm đặt lỵ sở tại huyện Vũ Xương, phủ Triệu Phong, ngoài việc cho xây dựng các dinh phủ đảm bảo việc điều hành quản lý của chính quyền, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã tập trung cho việc thiết lập các thiết chế phục vụ hoạt động quân sự, thương mại và văn hóa mà dấu vết ngày nay còn để lại qua các địa danh như: Bãi Trận, Mô Súng, Cồn Kho, Cồn Tập, Tàu Tượng, Chợ Hôm, Gềnh Phủ, Miếu Trảo Trảo phu nhân… nhằm biến lỵ sở Ái Tử - Trà Bát thành trung tâm đầu não của cả Ðàng Trong; tạo nền móng vững chắc cho công cuộc mở cõi về phương Nam. Với những ý nghĩa và giá trị lịch sử văn hóa đó, các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) trên đất Triệu Phong đã được xếp hạng đặc cách là di tích cấp tỉnh theo Quyết định số 707/Quyết Định -Uỷ Ban ngày 12/7/1996. Tuy nhiên, hơn 20 năm qua, do điều kiện khách quan và chủ quan, sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai nên các di tích thời Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong, Quảng Trị hầu như chưa được quan tâm đúng mức về việc bảo tồn và đầu tư, tôn tạo, chưa được đưa vào khai thác để phát huy giá trị lịch sử văn hóa của nó nên chưa khơi dậy, đánh thức tinh thần tự hào của nhiều thế hệ nhân dân Triệu Phong, Quảng Trị về mảnh đất khởi nghiệp của Chúa Nguyễn. Chính điều này là một trong nhiều nguyên nhân làm cho di tích mất dấu vết. Ngày 20/6/2018, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 2328/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch Quyết định xếp hạng di tích Quốc gia Di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Dinh Chúa Nguyễn (1558-1626) xã Triệu Ái, xã Triệu Giang, thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong. Từ đây, di tích lịch sử các địa điểm liên quan đến Chúa Nguyễn trên đất Triệu Phong đã có cơ sở khoa học trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, đầu tư tôn tạo và đặc biệt phát huy giá trị lịch sử, văn hóa, xứng tầm với vai trò và vị thế trong việc giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào và tấm lòng tri ân sâu sắc tới các thế hệ tiền nhân đã cống hiến cho sự phát triển của dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Trị.
Quảng Trị 2756 lượt xem
Trong không khí phấn khởi toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, chiều ngày 09/12/2024, tại xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Bộ tư lệnh Quan khu I phối hợp với Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã long trọng tổ chức khánh thành, bàn giao công trình tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn, thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Dự án tu bổ, tôn tạo Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn được khởi công xây dựng từ tháng 01/2024, với diện tích 3,32ha gồm các hạng mục: Cổng nghi môn; khối đá tên công trình; nhà đón tiếp; nhà bia di tích; nhà tưởng niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp; bình phong đá; cột cờ cùng các hạng mục phụ trợ khác. Sau hơn 10 tháng thi công việc tu bổ, tôn tạo đã hoàn tất và đưa vào sử dụng để phục vụ du khách trong và ngoài tỉnh tham quan. Sau khi khánh thành đưa vào sử dụng Di tích Quốc gia Đồi Pụ Đồn cùng với các di tích khác thuộc Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK sẽ là địa chỉ đỏ để cán bộ, chiến sỹ toàn quân về nguồn giáo dục truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao công tác quảng bá, giới thiệu về tiềm năng, thế mạnh của mảnh đất, con người ATK Định Hóa, Thái Nguyên./. NGUỒN: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 2529 lượt xem
Ngày 20/1/1948 tại Phủ Chủ tịch – mái lá cọ đơn sơ ở Khuôn Tát (xã Phú Đình), Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 110/SL phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ lãnh đạo - chỉ huy quân đội, quân hàm Đại tướng: Võ Nguyên Giáp, quân hàm Trung tướng: Nguyễn Bình, quân hàm Thiếu tướng: Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình. Trong một căn nhà dựng bên suối lớn, dựa một bên núi, cây cối chen phủ kín, ở ngoài trông vào rất khó thấy mà máy bay cũng khó lòng sục sạo. Một phòng trưng bày đặc biệt. Có bàn thờ Tổ quốc, chung quanh băng đỏ ghi các khẩu hiệu: “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Thống nhất độc lập nhất định thành công“… trông đơn giản mà trang nghiêm. Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, lên đứng 2 bên bàn thờ, toàn thể nhân viên Chính phủ đứng xếp hàng trước bàn thờ (ông Cù Huy Cận – thư ký Hội đồng Chính phủ, Phan Mỹ – Chánh văn phòng Chính phủ)… Chủ tịch Hồ Chí Minh tay cầm sắc lệnh gọi Võ Nguyên Giáp lên trước bàn thờ, rồi Cụ nín lặng, sụt sùi rơi nước mắt… Một phút vô cùng cảm động, mọi người đều rớm nước mắt. Giây lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới cất được tiếng mà tuyên bố: Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều binh khiển sĩ làm trọn sứ mạng mà quốc dân phó thác cho. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận sắc lệnh. Cụ Trưởng ban Thường trực nhân danh Quốc hội tuyên bố mấy lời. Ông Phan Anh thay mặt Chính phủ nói mấy câu chúc mùng. Tạ Quang Bửu – Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhân danh bộ đội tỏ lời mừng của toàn thể bộ đội và nêu cao tinh thần phấn đấu anh dũng dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau cùng, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng lên cảm ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội và Chính phủ, tuyên bố sẽ tiếp tục nỗ lực làm tròn nhiệm vụ để đem lại độc lập và thống nhất cho đất nước, Võ Nguyên Giáp lần lượt bắt tay tất cả mọi người. Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố bế mạc cuộc lễ. Ghi dấu sự kiện này, “Cảnh vệ Công an nhân dân Việt Nam, lịch sử biên niên 1941-1954” khắc ghi. “Từ đầu tháng 5 đến cuối tháng 5-1948 bảo vệ Bác trở lại Nà Lọm, xã Phú Đình, ở ngay trại thiếu nhi Bác Hồ bên suối Nà Lọm, cách đồi cũ chừng 200m. Tại đây Bác Hồ cùng Chính phủ phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp”... Ban quản lý di tích và danh thắng Thái Nguyên đã lập hồ sơ khoa học trình Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia cho địa điểm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì lễ phong quân hàm Đại tướng đầu tiên của quân đội ta, nơi ghi dấu sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự tiến lên chính quy, hiện đại của quân đội ta và sự quan tâm đào tạo, rèn luyện, cất nhắc các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân đội đánh thắng kẻ thù xâm lược bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Thái Nguyên 2761 lượt xem
Trên đường quốc lộ 1A qua địa phận tỉnh Quảng Bình, từ ngã ba Cam Liên, đi theo hướng Tây Nam khoảng 7km đến Trung tâm huyện Lệ Thủy. Từ đó đi qua cầu chợ Tréo đến thôn Xuân Bồ - xã Xuân Thủy - huyện Lệ Thủy. Hơn 55 năm trước, trên mảnh đất giàu truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng này đã xảy ra một trận chiến quyết liệt giữa ta và quân Pháp, đó là chiến thắng Xuân Bồ (20-5-1950). Để đối phó với âm mưu thủ đoạn của địch, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Bình Trị Thiên quyết định mở các chiến dịch Lê Lai và chiến dịch Thu Đông 1949. Mục đích của các chiến dịch này là mở rộng và củng cố các vùng căn cứ đồng bằng mà trọng điểm là hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, quyết tâm bảo vệ mùa màng. Để thực hiện chiến dịch, Bộ Tư lệnh cũng đã tăng cường cho hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy, Trung đoàn 18 và Trung đoàn 95, thuộc Sư đoàn 325. Trung đoàn 18 được bố trí đóng quân ở xã Xuân Thủy, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 18 đóng ở thôn Xuân Bồ, xã Xuân Thủy. Sáng 19-5-1950, các đơn vị của Trung đoàn 18 cùng với nhân dân Xuân Bồ tổ chức mít tinh kỷ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ đồng thời mừng thắng lợi chiến dịch Lê Lai. Nhận được tin này, tướng Lơ-Brít của Pháp từ Thừa Thiên- Huế bay ra Đồng Hới, quyết định bất ngờ mở cuộc tấn công, âm mưu tiêu diệt Trung đoàn 18. Tiểu đoàn 6 Spha-hy khét tiếng gian ác, được báo chí Pháp luôn khoe khoang là “rất thiện chiến” và “chưa gặp đối thủ” cũng được điều động từ đồng bằng Bắc bộ vào trước đó. Nắm được âm mưu và kế hoạch của địch, các đồng chí lãnh đạo của Trung đoàn 18 lập tức cho giải tán cuộc mít tinh để chuẩn bị chống càn. 8 giờ sáng ngày 20-5-1950, Tiểu đoàn 6 Spha-hy từ đồn Mỹ Trạch, Tiểu đoàn ứng chiến Quảng Bình từ đồn Thượng Phong đều vượt sông sang cùng phối hợp tấn công thôn Xuân Bồ. Cùng lúc đó, pháo binh từ đồn Hòa Luật Nam cũng dồn dập bắn tới. Nhận định cuộc chiến không cân sức giữa ta và địch, đồng chí Trung đoàn trưởng Phùng Duy Phiên đã bố trí Tiểu đoàn 436 bám trụ tại chỗ phối hợp cùng quân dân đánh trả địch, đồng thời quyết định điều thêm Tiểu đoàn 724 (lúc này đang đóng ở thôn Uẩn Áo, đối diện thôn Xuân Bồ) vượt sông sang tiếp viện thêm. Do có sự bố trí lực lượng hợp lý, khi địch vừa tấn công Xuân Bồ, lập tức chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của ta. Các cánh quân của ta, với lối đánh mưu trí, dũng cảm, lúc lừa địch lọt sâu vào trận địa rồi tổ chức phản công; lúc đánh bật chúng ra cánh đồng rồi dùng hỏa lực sát thương, ta đã liên tục bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Trận đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Sau nửa ngày, ta từ thế phòng ngự chuyển sang tấn công. Bộ đội ta xông vào đánh giáp la cà với địch bằng lưỡi lê, báng súng. Cuộc chiến đấu kéo dài đến sẩm tối và chuyển dần từ làng Xuân Bồ ra ngoài cánh đồng. Trước khí thế tấn công dũng mãnh của các lực lượng của ta, địch phải lùi dần. Trên đà thắng lợi, quân ta đuổi đánh địch đến cùng. Kết quả, sau 13 giờ đồng hồ, bằng sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần quyết chiến quyết thắng, Trung đoàn 18 cùng với bộ đội địa phương đã bẻ gãy hoàn toàn cuộc tấn công với âm mưu thủ đoạn vô cùng thâm độc của thực dân Pháp, khiến cho kế hoạch của chúng bị thất bại thảm hại. Từ trong cuộc đọ sức quyết liệt với địch đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng. Đồng chí Lâm Úy, Tiểu đội trưởng của Đại đội 2 đã giằng co quyết liệt với địch, sau khi súng gãy, anh đã dùng lưỡi lê đâm chết hàng chục tên lính Pháp. Lê gãy, anh tiếp tục xông vào vật lộn với tên sĩ quan Pháp, quật hắn cùng ngã xuống sông. Anh đã hy sinh bên dòng Kiến Giang. Cha con bác lão quân Dương Né đã chèo thuyền như con thoi chở bộ đội vượt sông giữa làn mưa đạn của giặc. Các bà mẹ chiến sĩ và chị em phụ nữ không quản hiểm nguy, tiếp cơm nước cho bộ đội và chăm sóc thương binh. Tất cả đã làm nên chiến thắng oanh liệt: chiến thắng Xuân Bồ. Sau trận chiến thắng Xuân Bồ, tập thể cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 325 đã được Quốc hội, Chính phủ tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trung đoàn 18 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Và, để ghi nhận công lao to lớn cũng như sự hy sinh anh dũng của đồng chí Lâm Úy, Nhà nước đã truy tặng anh danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1992, Bộ Văn hóa-Thông tin đã ký Quyết định xếp hạng di tích lịch sử Chiến thắng Xuân Bồ. Tại địa điểm nơi diễn ra trận đánh, nơi anh hùng Lâm Úy hy sinh đều đã được xây dựng bia đài tưởng niệm, ghi dấu chiến công hào hùng mà lớp cha ông đã phải đổ máu, hy sinh để giành lại từng mảnh ruộng, bờ tre, để nhắc nhở bao thế hệ con em luôn biết cách gìn giữ, bảo vệ, xây dựng quê hương trong thời đại mới. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Xuân Thủy , huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Quảng Trị 2855 lượt xem
Cầu Gia Bảy được xây dựng khoảng những năm 1928-1930. Trước đây, cầu nằm trên Quốc lộ 1B, con đường huyết mạch nối từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên. Vào thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, cầu từng bị binh lính và người dân Việt Nam phá sập vào năm 1947. Đến năm 1965, cầu bị máy bay Hoa Kỳ ném trúng ba quả bom và hư hỏng nặng. Năm 1991, cầu được xây mới tại vị trí cũ, có chiều dài gần 100m, chiều rộng khống chế 9m. Cầu Gia Bảy là nơi ghi nhiều dấu ấn lịch sử, nhất là trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Lịch sử đã ghi lại: Ngày 17/10/1965, giặc Mỹ huy động 29 lần chiếc máy bay, ném 116 quả bom phá xuống cầu Gia Bảy và nhiều loạt đoạn tên lửa xuống trận địa pháo cao xạ của Trung đoàn 210, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của chúng vào Thái Nguyên. Sức tàn phá quá lớn của trận bom đã khiến cầu Gia Bảy bị hỏng hai mố, dầm chủ và dầm bên thượng lưu, hạ lưu bị đứt khiến giao thông hoàn toàn ngưng trệ. Bom Mỹ làm 147 người chết và bị thương; 45 ngôi nhà ở hai bên đầu cầu bị cháy, đổ; 32 cán bộ chiến sĩ trong Đại đội tự vệ khu phố Hoàng Văn Thụ thương vong. NGUỒN: Sở ngoại vụ Tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên 3067 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 13206 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 12016 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9839 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9807 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9459 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8914 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8907 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8769 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8566 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8490 lượt xem